Home » Archives for 2015
Làng Mộc Kim Bồng (Hội An- Quảng Nam)
Cùng với phố cổ Hội An, mộc Kim Bồng nổi tiếng gần xa bởi những người thợ đi ngược xuôi đất nước xây dựng những ngôi nhà rường, nhà cổ ba gian còn lưa giữ đến ngày nay.
Làng mộc Kim Bồng nằm trên vùng đất Cẩm Kim ngày nay, được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 15. Du khách chỉ mất 10 phút đi phà từ phố cổ Hội An qua làng mộc Kim Bồng thuộc xã đảo Cẩm Kim. Bước chân lên vùng đất này đã nghe tiếng đục đẽo, khoan cắt vang lên từ hai bờ Đông Tây. Những âm thanh đó đã trở nên một phần không thế thiếu trong đời sống của người dân bao đời gắn liền với cây gỗ nơi đây.
Hằng ngày nhiều chuyến phà đưa các đoàn du khách ghé thăm làng mộc tài danh. |
Vùng đất Cẩm Kim nằm ở hữu ngạn hạ lưu sông Thu Bồn, Hội An xưa từng là một thương cảng sầm uất của Đàng Trong, nhờ vậy các làng nghề tại đây như gốm Thanh Hà, mộc Kim Bồng có cơ hội phát triển phồn thịnh.
Vốn nằm trên địa thế sông nước, thuận lợi cho việc vận chuyển bè gỗ, đóng tàu, hạ thủy, làng mộc Kim Bồng còn đưa các sản phẩm của mình theo thuyền buôn đến nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy mà cho đến bây giờ, các sản phẩm mộc như bàn ghế, tủ gỗ, tượng phật, … của làng Kim Bồng vẫn được thương gia trong và ngoài nước tìm đến đặt hàng.
Kim Bồng Đông đóng tàu thuyền, Kim Bồng Tây chạm khắc gỗ để cho ra những sản phẩm còn tồn tại qua nhiều thập kỷ, mà trong đó khu phố cổ Hội An là một trong những minh chứng của một thời kỳ hưng thịnh cũng như sự tài hoa tài tình của những người thợ làng mộc Kinh Bồng.
Những thế hệ người Kim Bồng vẫn còn tiếp nối nghề truyền thống của làng. |
Nhờ sự giao thoa văn hóa Đông Tây mà mộc Kim Bồng giữ được trong mình những nét đặc sắc riêng trong từng nét chạm khắc. Trong khi các làng mộc phía Bắc đều bị ảnh hưởng ít nhiều bởi văn hóa phong kiến phương Bắc, mang đậm dấu ấn các triều đại trong lịch sử. Mỗi họa tiết đặc trưng như rồng phương đều mang sức mạnh, uy quyền của từng thời kỳ.
Thì với mộc Kim Bồng, nhẹ nhàng, mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế là những điều du khách có thể cảm nhận từ hình ảnh phố cổ Hội An cũng nhưh trên các sản phẩm khác. Những họa tiết hoa văn trên từng cây cột cây kèo là hình ảnh cành hoa, cây lá.
Cùng là hình ảnh con rồng nhưng dưới bàn tay của người thợ mộc Kim Bồng lại mang hình tượng tre hóa rồng, miệng ngâm hoa cười hiền hòa. Hình ảnh người nông dân hay cây tre Việt Nam cũng được đưa vào từng nét chạm khắc. Tất cả đều mộc mạc gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân.
Ngoài phố cổ Hội An, dấu ấn tài hoa của những người thợ mộc Kim Bồng cũng được nhìn nhận qua lịch sử xây dựng kinh thành Huế. Thuở ấy, khi các triều Nguyễn quyết định đóng đô ở Huế, đã mời các thợ mộc từ vùng đất phía Nam về xây dựng. Mà lúc bấy giờ chính là mộc Kim Bồng và Vân Hà, Quảng Nam.
Kim Bồng không chỉ có “mộc” mà còn có “nề”, họ xây dựng lăng tẩm, đền thờ miếu mạo dọc khắp các tỉnh miền Trung. Nếu người thợ mộc làm cái khung sườn thì người thợ nề sẽ đắp tường, lợp ngói để hoàn thành một ngôi nhà, đình làng.
Nghệ nhân Huỳnh Sướng, truyền nhân đời thứ 13 nhà họ Huỳnh theo nghiệp mộc cho biết “Sản phẩm mộc Kim Bồng không phải là hàng hóa để có thể mang ra thị trường. Từ xưa đến nay đó là nghề làm công ăn lương. Một sản phẩm được tạo ra là cả quãng thời gian dài với bao công sức và tâm huyết. Vậy nên mỗi ngôi nhà, một bộ bàn ghế đều mang những dấu ấn tài hoa của người thợ”.
Người làng Kim Bồng ngày nay vẫn còn ngược xuôi các vùng miền để dựng nên những chiếc nhà giường cổ, ba gian hai chái. Người nhà tộc Huỳnh, một trong bốn tộc có công lập làng là Huỳnh – Trương – Phan – Nguyễn vẫn còn tự hào khi có cụ Huỳnh Kim Hơn đã từng tham gia xây dựng lăng chủ tịch Hồ Chí Minh. Cha con ông Huỳnh Ri, Huỳnh Sướng cũng trở thành nghệ nhân ưa tú từ nghề mộc trên đất Kim Bồng này.
Đến với làng mộc Kim Bồng, du khách có cơ hội ghé thăm xưởng mộc, trực tiếp nhìn những nét chạm của người thợ tài hoa. Tại đây cũng đang trưng bày những sản phẩm đặc sắc như: chiếc đinh hương chạm khắc 1000 con rồng bằng hình ảnh cây tre hóa đã được triễn lãm nhân dịp 1000 năm Thăng Long tại Hà Nội, chùa Cầu Hội An được chuyển thể nguyên trạng, …
Những sản phẩm của làng bây giờ có nét khác biệt với các làng nghề khác đó là sản phẩm được để mộc, nếu có sơn phết đánh bóng cũng chỉ nhẹ nhàng để giữ lại màu gỗ tự nhiên. Chính từ những con trâu, con lợn gỗ mộc mạc, từ chiếc đĩa chạm hình lũy tre, thiếu nữ với tà áo dài đã thu hút sự tò mò thích thú của du khách trong ngoài nước khi có dịp tìm hiểu về mộc Kim Bồng.
Những họa tiết trên sản phẩm mộc Kim Bồng được lấy từ cuộc sống dân giã hằng ngày. Chính sự mộc mạc đó mà du khách luôn nhớ về mộc Kim Bồng. |
Sản phẩm mộc Kim Bồng ngày nay tuy không được bày bán hay quảng bá ở đâu, nhưng người yêu gỗ gần xa vẫn tìm đến Kim Bồng để đặt hàng cho một ngôi nhà cổ, một bộ bàn ghế. Và đâu đó trong đô thị cổ Hội An, kinh thành Huế đang trầm mặc cùng năm tháng luôn có bóng hình tài hoa của người thợ mộc nề Kim Bồng nơi đây.
Bài và ảnh: Thùy Trang
Theo dulich.vnexpress.vn
Làng Gốm Thanh Hà (Hội An- Quảng Nam)
Làng gốm Thanh Hà nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, thuộc địa bàn phường Thanh Hà, thành phố Hội An, cách khu phố cổ khoảng 2km về hướng tây.
Đưa tay chỉ đoàn khách du lịch quốc tế gần 20 người đang quan sát, mân mê những sản phẩm gốm của làng, nghệ nhân Nguyễn Lành, 78 tuổi sôi nổi nói: “Nhờ chính quyền quan tâm khôi phục và chuyển hướng vào tuyến du lịch của thành phố mà làng nghề chúng tôi mới phục hồi như ri. Những người làm gốm như tôi nhờ đó cũng có cơ may thủ nghệ, giữ được nghề truyền thống của cha ông”.
Làng gốm Thanh Hà (Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ) của cụ Lành nằm cách Đô thị cổ Hội An gần 3 cây số với lịch sử hình thành hơn 500 năm qua. Vốn dĩ theo chân những lưu dân Thanh Hóa Nam tiến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, tổ tiên nghề gốm của làng đã dừng lại ở đây sinh cơ lập nghiệp. Bằng sự kết hợp giữa kỹ thuật làm gốm xứ Bắc với phong thổ, tố chất đất Quảng, họ đã hình thành một làng nghề Thanh Hà với các sản phẩm phong phú, sắc sảo.
Các sản phẩm của làng là gốm thô, nung không men với các chủng loại như con thổi, nồi, chậu, ấm, hũ, cối, trả, chum vại, bình hoa, chậu kiểng, chân đèn… nhờ tính đất nhẹ hơn hàng đất nung ở các nơi khác nên được nhiều người ưa chuộng. Những người thợ gốm Thanh Hà còn làm ra ngói âm dương, ngói móc để lợp và gạch để lát nền cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và quanh vùng. Tuy mang màu đỏ đặc trưng, nhưng tùy theo kỹ thuật, thời gian và nhiệt độ nung, gốm Thanh Hà có thể chuyển đổi sang màu hồng, hồng vàng hay gạch nâu và xám đen. Đây là những yếu tố làm phong phú chất liệu, màu sắc các sản phẩm gốm Thanh Hà xưa. Cộng hưởng thêm địa thế phía trước trông ra sông Thu Bồn nằm sát biển, bến sông thoáng rộng, thuận tiện cho thuyền bè vào ra, làng gốm Than Hà theo đó, từ thế kỷ 16, 17 đã trở thành một làng nghề thịnh đạt, sản phẩm được trao đổi, bán buôn khắp nơi. Các nghệ nhân gốm Thanh Hà cùng các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng (Hội An) từng được các vua triều Nguyễn mời ra Huế để chế tác những sản phẩm phục vụ cho sinh hoạt cung đình, có người được phong quan tước, hàm Bát phẩm, Cửu phẩm.
Tuy nhiên, cùng với thời gian, sự phát triển của kinh tế xã hội, nghề gốm Thanh Hà sau những giai đoạn chiến tranh, biến động xã hội dần đã bị mai một. Nhiều nghệ nhân phải đổi nghề hoặc tha phương kiếm sống, tạm gác bỏ nghề cha truyền con nối bao năm.
Rất may từ khi Hội An trở thành điểm phát triển du lịch rồi di sản văn hóa thế giới tại miền Trung, chính quyền và người dân nơi đây đã nhìn nhận lại thực trạng làng nghề để tiến đến phục hồi làng nghề truyền thống. Các nghệ nhân tâm huyết của làng gốm Thanh Hà theo đó cũng ra sức vực làng nghề sống dậy. Lò nung gốm Thanh Hà từng bước đỏ lửa quanh năm theo tiến độ phát triển văn hóa du lịch. Nghệ nhân Lê Trọng, một người khá tâm huyết với nghề nói: “Từ hướng phát triển du lịch làng nghề, bà con làng gốm chúng tôi không chỉ giữ được lửa, sống lại nghề truyền thống mà nhiều nghệ nhân, nhiều bạn trẻ còn sáng tạo ra các mẫu mã phục vụ trang trí cung cấp cho các công trình xây dựng mới”. Thực tế cho thấy hiện nay, làng gốm đã có thêm những sản phẩm mới như đèn lồng gốm đỏ, gạch hoa gốm, nhiều hình mẫu, con vật, phù điêu, mặt nạ… dùng để trang trí trên tường, hàng rào… được đông đảo khách hàng mua hoặc đặt làm.
Đến với làng gốm Thanh Hà hôm nay, những du khách gần xa sẽ được tiếp cận, làm quen với toàn bộ quy trình sản xuất các sản phẩm truyền thống. Chị Linda Jenne ( Ire Land ), một du khách nhận xét: “Vào đây, chỗ nào chúng tôi la liệt các sản phẩm gốm để xem, chụp hình, quay phim. Nhiều nhất là các con thổi đã thấy bày bán trước các Hội quán trong Phố cổ. Thú vị hơn, chúng tôi được tận mắt chứng kiến những thao tác điêu luyện từ đôi bàn tay của các nghệ nhân. Những thỏi đất sét vô hồn qua tay nhào nặn của người thợ bỗng trở thành những sản phẩm xinh xắn, đẹp mắt, tinh xảo và có hồn. Thật tuyệt vời”. Không chỉ được xem, mọi du khách còn có thể cùng ngồi vào bàn chuốt để nhào nặn ra những sản phẩm gốm đơn giản làm kỷ niệm. Vì thế, không có gì lạ khi đoàn du khách nào rời khỏi làng gốm Thanh Hà cũng lích kích mang theo đủ loại vật phẩm làm lưu niệm.
Cũng cần nói, những năm gần đây gốm Thanh Hà đã theo chân du khách và các nhà thiết kế mô túy nhà cổ lan tỏa đi khắp nơi trong nước và cả nước ngoài. Hình ảnh làng gốm cổ QuảngNam vì vậy càng vượt xa khung cảnh bình dị của mình để đóng góp vào tiến trình phát triển kinh tế và văn hóa du lịch của thành phố cổ Hội An và Việt Nam .
Nguồn:Báo kinh tế hợp tác Việt Nam
Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh (Hà Nội)
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay còn gọi là Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của chủ tịch Hồ Chí Minh.Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975.
Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh" bằng đá hồng màu mận chín. Trong di chúc, Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước [1]. Tuy nhiên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, với lý do "theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân", quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này người dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng
Xây dựng lăng
Ướp thi hài
Năm 1968, ngay trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, một chuyên viên Liên Xô đã bí mật đến Hà Nội để cố vấn các chuyên gia Việt Nam về công nghệ ướp xác. Tháng 3 năm sau, một nhóm chuyên viên người Việt đến Moskva để tham khảo thêm và báo cáo về tình hình nắm giữ công nghệ này. Lúc này, đây là một đề tài nhạy cảm trong các nhà lãnh đạo Đảng vì theo di chúc Hồ Chí Minh có nguyện vọng được hỏa táng. Tuy nhiên, bí thư Lê Duẩn đã từng đề nghị Hồ Chí Minh nên cho bảo quản thi hài lâu dài để đồng bào miền Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy Hồ Chí Minh không nói gì.[5] Ngay vào thời điểm ông mất, Bộ Chính trị vẫn chưa có quyết định cuối cùng về việc này.[6]
Theo báo chí trong nước, trong lễ truy điệu, đến dự có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dẫn đầu đến viếng. Bí thư Lê Duẩn đã đề nghị cho chuyên gia Liên Xô sang gấp để bảo quản thi hài. Chủ tịch đoàn Liên Xô cứng rắn nói rằng phải đưa thi hài sang Liên Xô. Lúc đó, Lê Duẩn đã khóc và bác bỏ: "Không thể được, theo phong tục Việt Nam, Người phải ở lại với đồng bào chúng tôi!". Chủ tịch đoàn lập tức điện về Liên Xô, xin ý kiến và đã đồng ý cử ngay chuyên gia sang Việt Nam giúp bảo quản thi hài.[5]
Tuy nhiên, theo tiết lộ gần 50 năm sau của Giáo sư Viện sỹ Iuri Lopukhin, thì đoàn chuyên gia Liên Xô đã qua trước đó mấy ngày. Ngày 28 tháng 8 năm 1969, khi bệnh tình của lãnh đạo Việt Nam trở nên rất nặng, Giáo sư Viện sỹ Iuri Lopukhin, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Moscow số 2 và bốn chuyên gia Liên Xô khác từ Viện Lăng Lenin đã được mời sang Hà Nội. Việc ướp thi hài của Hồ Chí Minh được thực hiện vào bảy ngày sau đó tại Viện Quân y 108 ở Hà Nội, khi ông qua đời.[7][8] Tính từ năm 1969 đến 2014, đã có 82 chuyên gia y tế Liên Xô qua giúp Việt Nam trong việc này.
Thiết kế lăng
Sau Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, "Ban phụ trách qui hoạch A", trong đó có các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Quốc Hoàn, Phùng Thế Tài, bắt đầu nghiên cứu qui hoạch xây dựng Lăng Hồ Chủ tịch.[10] Tháng 1 năm 1970, Chính phủ Liên Xô cử một đoàn cán bộ sang Việt Nam bàn về thiết kế và thông báo sẽ giúp đỡ kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng và trang bị cho Lăng. Các chuyên gia Liên Xô chuẩn bị 5 phương án về bố trí cụm tổng thể của Lăng. Sau thời gian ngắn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua "Dự thảo nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh" do các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đưa ra.
Tin tức về việc xây dựng Lăng Hồ Chí Minh được lan truyền trong nhân dân, nhiều người Việt Nam ở cả 2 miền Nam, Bắc và Việt kiều ở nước ngoài gửi thư về đóng góp ý kiến. Theo nguyện vọng của nhân dân, Bộ Chính trị quyết định lùi việc duyệt bản thiết kế sơ bộ đã được thông qua. Một đợt sáng tác mẫu thiết kế Lăng được tổ chức, các mẫu được trưng bày và lấy ý kiến của nhân dân. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/1970 tới 8/1970, có 200 phương án thiết kế được gửi đến, trong đó có 24 phương án được chọn lựa và đem trưng bày tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn La và Nghệ An. 745.487 lượt người đã tới thăm và 34.022 người tham gia ý kiến.
Kết thúc đợt triển lãm và lấy ý kiến, bản "thiết kế sơ bộ" tổng hợp các ý kiến của nhân dân được mang sang Liên Xô. Sau 3 tuần làm việc, phương án thiết kế sơ bộ của Việt Nam được Liên Xô chấp nhận.
Lăng được thiết kế để có độ bền vững cao, chống được bom đạn và động đất cường độ 7 richter. Ngoài ra còn có công trình bảo vệ đặc biệt chống lụt phòng khi Hà Nội bị vỡ đê. Kính quan tài phải chịu được xung lực cơ học lớn. Lăng còn được thiết kế thêm "buồng đặc biệt" để có thể giữ thi hài tại chỗ trong trường hợp có chiến tranh.
Việc thiết kế hết 2 năm.
Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Lăng được chính thức khởi công xây dựng vào ngày 2 tháng 9 năm 1973.
Vật liệu xây dựng được mang về từ nhiều miền trên cả nước. Cát được lấy từ suối Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình do người dân tộc Mường đem về; đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiêm Hoá, Ngòi Thìa, Tuyên Quang...; đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (Chùa Thầy), đá đỏ núi Non Nước...; đá dăm được đưa từ mỏ đá Hoàng Thi (Thác Bà, Yên Bái), còn cát lấy từ Thanh Xuyên (Thái Nguyên). Nhân dân dọc dãy Trường Sơn còn gửi ra 16 loại gỗ quý. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: cây chò nâu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên-Lai Châu, tre từ Cao Bằng... Thanh thiếu niên còn tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên giaLiên Xô đảm nhiệm. Liên Xô cũng gửi hai vạn tấm đá hoa cương và cẩm thạch mài nhẵn để trang trí cho Lăng.
Về thi hài của Hồ Chí Minh, thì theo tiết lộ của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông thì khi Mao Trạch Đông mất năm 1976, vì lúc đó quan hệ Trung Quốc với Liên Xô đang xấu nên thay vì qua Liên Xô tham khảo cách giữ thi hài, họ gửi hai người đến Hà Nội để học hỏi cách bảo quản thi hài, theo cách bảo quản thi hài Hồ Chí Minh tại Lăng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chuyến đi không kết quả vì Việt Nam từ chối chia sẻ kinh nghiệm và còn không cho các nhà khoa học Trung quốc xem thi hài Hồ Chí Minh.
Miêu tả
Trên đỉnh lăng là hàng chữ "Chủ tịch Hồ Chí Minh" ghép bằng đá ngọc màu đỏ thẫm của Cao Bằng[10]. Cửa lăng làm từ các cây gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền sảnh ốp đá hoa cương vân đỏ hồng, làm nền cho dòng chữ "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do" và chữ ký của Hồ Chí Minh được dát bằng vàng. 200 bộ cửa trong Lăng được làm từ các loại gỗ quý do nhân dân Nam Bộ, Tây Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, và bộ đội Trường Sơn gửi ra, và do các nghệ nhân nghề mộc của Nam Hà, Hà Bắc, và Nghệ An thực hiện. Cánh cửa vào phòng đặt thi hài do hai cha con nghệ nhân ở làng Gia Hòa đóng. Hai bên cửa chính là hai cây hoa đại. Phía trước và phía sau lăng trồng 79 cây vạn tuế tượng trưng cho 79 năm trong cuộc đời của Hồ Chủ tịch. Hai bên phía nam và bắc của lăng là hai rặng tre, loại cây biểu tượng cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai người lính đứng gác, 1 giờ đổi gác một lần.
Chính giữa lăng là phòng đặt thi hài ốp đá cẩm thạch Hà Tây. Trên tường có 2 lá quốc kỳ và đảng kỳ lớn, ghép từ 4.000 miếng đá hồng ngọc Thanh Hóa, hình búa liềm và sao vàng được ghép bằng đá cẩm vân màu vàng sáng.Thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trong hòm kính. Qua lớp kính trong suốt, thi hài Hồ Chí Minh nằm trong bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân có đặt một đôi dép cao su. Trong những dịp có người viếng lăng, sẽ có bốn người lính đứng gác. Chiếc hòm kính đặt thi hài là một công trình kỹ thuật và nghệ thuật do những người thợ bậc thầy của hai nước Việt - Xô chế tác. Giường được chế tác bằng đồng, có dải hoa văn bông sen được cách điệu, ba mặt giường lắp kính có độ chịu xung lực cao. Nóc giường bằng kim loại, có hệ thống chiếu sáng và hệ thống điều hòa tự động. Giường được đặt trên bệ đá, có hệ thống thang máy tự động.
Lăng có hình vuông, mỗi cạnh 30 m, cửa quay sang phía Đông, hai phía Nam và Bắc có hai lễ đài dài 65 m dành cho khách trong những dịp lễ lớn. Trước lăng là Quảng trường Ba Đình với một đường dành cho lễ diễu binh, duyệt binh, và một thảm cỏ dài 380 m chia thành 240 ô vuông cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Trước mặt lăng là cột cờ, Lễ thượng cờ được bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng (mùa nóng); 6 giờ 30 phút sáng (mùa lạnh) và Lễ hạ cờ diễn ra lúc 9 giờ tối hàng ngày[13]. Thẳng tiếp qua sân cỏ là đường Bắc Sơn, có trồng hoa hồng đỏ và hoa đào. Tận cùng đường Bắc Sơn là đài Liệt sỹ. Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn Hồ Chí Minh. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách ở các tỉnh thành phố và nước ngoài đến thăm viếng.
Hoạt động
Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến viếng lăng vào các ngày lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng của Việt Nam.
Lăng không thu phí vào cửa và khách viếng thăm buộc phải tuân theo những yêu cầu như ăn mặc chỉnh tề, không đem máy ảnh, điện thoại di động có chức năng quay phim, chụp ảnh, tắt điện thoại, không mang đồ ăn thức uống và giữ trật tự trong lăng...
Tính đến năm 2012 đã có gần 50 triệu lượt người vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó hơn 8 triệu khách quốc tế. Ðối với khách tham quan ở xa, việc tổ chức nhà nghỉ trọ được thực hiện chu đáo, tận tình. Việc ăn phụ, giải khát, chống rét, phục vụ thương binh nặng và người già yếu đến viếng đều được nghiên cứu tổ chức chu đáo. Công tác đón tiếp khách được cải tiến, như cải tạo các nhà chờ thành hai khu vực khang trang, để trước khi vào viếng, khách có thể tạm dừng chân, ngắm những cây hoa, cây cảnh, xem những bộ phim tư liệu. Ðối với các đoàn thương binh bị cụt chân, những chiến sĩ tiêu binh luôn chuẩn bị sẵn xe đẩy đặc biệt để phục vụ. Trong phòng viếng chia làm 2 hàng, hàng phía trong gần nơi đặt thi hài hơn được dành riêng cho trẻ em
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cửa 5 ngày một tuần, vào các buổi sáng thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy và Chủ nhật. Mùa nóng (từ 1-4 đến 31-10): Từ 7h30 đến 10h30; mùa lạnh (từ 1-11 đến 31-3 năm sau): Từ 8h00 đến 11h00; ngày lễ, thứ Bảy, Chủ nhật mở cửa thêm 30 phút. Hàng năm Lăng đóng cửa để làm nhiệm vụ tu bổ định kỳ vào 2 tháng: tháng 10 và tháng 11. Ngày 19/5, 2/9 và Mồng 1 Tết Nguyên đán nếu trùng vào Thứ Hai hoặc Thứ Sáu, vẫn tổ chức lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ban Quản lý
Ban Quản lý
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam có chức năng chỉ đạo, phối hợp các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc giữ gìn nguyên vẹn, lâu dài và bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư lệnh Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm chức vụ Trưởng Ban quản lý Lăng.
Lãnh đạo hiện nay
Trưởng ban: Thiếu tướng Nguyến Văn Cương
Phó Trưởng ban: Thiếu tướng Nguyễn Trọng Khánh
Đơn vị trực thuộc
Văn phòng Ban Quản lý Lăng
Ban Quản lý Quảng trường Ba Đình
Trung tâm Nghiên cứu, ứng dụng Khoa học, Công nghệ và Môi trường
Đơn vị phối thuộc
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng
Trung đoàn 375, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an
Lãnh đạo qua các thời kỳ
Trưởng ban Quản lý Lăng
2008-nay, Nguyễn Văn Cương, Thiếu tướng (2009), kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng
Phó Trưởng ban Quản lý Lăng
Đặng Trọng Huy, Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an
Vũ Văn Bình, Đại tá, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng
Phạm Văn Lập, Thiếu tướng (2013), Chính ủy Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng
Nguyễn Trọng Khánh, Thiếu tướng (2014), Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng
Phố cổ Hà Nội
Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Khu "Hà Nội 36 phố phường" là một cách gọi không chính xác của khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ.
Vị trí
Khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ.Theo quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30 tháng 3 năm 1995 của Bộ Xây dựng, khu Phố cổ Hà nội có phạm vi được xác định[1]: phía Bắc là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ vàHàng Thùng; phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật.
Mặc dù các phố cổ của Hà Nội còn nằm cả bên ngoài khu vực này, nhưng do đây là khu vực tập trung phố cổ nhiều nhất và còn giữ được những đặc trưng nên chỉ khu vực theo quy định trên được gìn giữ, bảo tồn là khu phố cổ.
Lịch sử
Thời Lê, giữa khu này có một số đầm hồ, lớn nhất là hồ Thái Cực. Sông Tô Lịch nối với hào thành, các đầm hồ, thông với hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng cũng ở khu vực này. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đó hoàn toàn bị lấp, nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông.Khu dân cư sinh hoạt và buôn bán sầm uất này đã được hình thành từ thời Lý - Trần, nằm ở phía đông của hoàng thành Thăng Long ra đến sát sông Hồng. Đầu đời đời Lê, trong sách Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến tên một số phường nghề tại đây. Dưới thời Lê, đặt phủ Phụng Thiên gồm hai huyện là Vĩnh Thuận và Thọ Xương, thì khu này nằm gọn trong bốn tổng Túc của huyện Thọ Xương là Tiền Túc, Hậu Túc, Tả Túc, Hữu Túc. Bên ngoài khu vực là vòng thành Đại La có trổ các cửa ô.
Thời Lý - Trần, dân cư từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về khu vực này sinh sống, tạo thành khu phố đông đúc nhất kinh thành. Đến đời Lê, dần dần đã có một số Hoa kiều buôn bán ở đây, hình thành nên các khu phố Tàu.
Thời Pháp thuộc, sau khi lấp toàn bộ các đầm hồ, khu phố được chỉnh trang, người Ấn, người Pháp cũng đến đây buôn bán. Hai chợ nhỏ được giải tỏa để lập chợ Đồng Xuân, Đường ray xe điện Bờ hồ - Thụy Khuê cũng chạy xuyên qua đây.
Cho đến nay, đây vẫn là khu buôn bán nhộn nhịp nhất của Hà Nội. Tuyến phố đi bộ cũng được mở tại đây.
Các phố nghề
Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, Thuốc Bắc... Ngoài ra một số phố tuy không giữ nghề truyền thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một loại hàng hóa như phố Hàng Quạt bán đồ thờ, Hàng Buồm bán bánh kẹo, phố Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch... Phố Hàng Bè Đặc trưng nổi tiếng nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghề của mình. Cácthuyền buôn có thể vào giữa phố để buôn bán trao đổi, khiến các phố nghề càng phát triển. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước, mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng.
- Hàng Bông lấy theo tên đoạn phố chính Hàng Bông Đệm vốn có nhiều nhà làm nghề bật bông, bán mền bông, chăn đệm.
- Phố Hàng Mã ngày xưa chuyên buôn bán đồ vàng mã để thờ cúng, bao gồm tiền giấy âm phủ, vàng giấy âm phủ, sau mở rộng thêm các tượng giấy hình các quan, hình nhà cửa... để cúng và đốt cho người âm (người chết). Ngày nay phố Hàng Mã tập trung nhộn nhịp vào các dịp lễ,tết Trung Thu, Nguyên Đán với các mặt hàng phong phú về đồ chơi. Ngoài ra, tại đây cũng là nơi bán đồ trang trí phông màn cho đám cưới với các hình cắt làm từ nguyên liệu giấy màu hay bọt xốp nhiều màu sắc.
- Phố Mã Mây. Phố này nguyên bao gồm hai phố xưa: phố Hàng Mã và phố Hàng Mây[2]. Đoạn phố Hàng Mây nằm giáp phố Hàng Buồm, trên bờ sông Nhị, nơi tập trung thuyền bè miền ngược chở các mặt hàng lâm sản như song, mây, tre, nứa...
- Phố Hàng Bạc do ông Lưu Xuân Tín được nhà vua cho phép mở lò đúc bạc thành nén cho triều đình[3], kéo người trong họ hàng và người làng Trâu Khê (hayChâu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang - Hải Dương) ra đây mở phường đúc bạc, thành lập trường đúc ở số nhà 58 Hàng Bạc.
- Phố Hàng Đào là nơi buôn tơ, bán vải vóc (chữ vải điều chỉ màu đỏ được đọc chệch thành chữ đào)
- Phố Hàng Lược nối từ phố Hàng Cót đến phố Chả Cá, vốn là nơi có nhiều nhà buôn bán lược: lược gỗ, lược sừng và sau này là lược nhựa.
- Phố Hàng Chai không phải là nơi sản xuất, buôn bán chai lọ; phố này là một đoạn ngõ nhỏ nối phố Hàng Rươi và Hàng Cót, đây là nơi tập trung dân nghèo chuyên làm nghề thu lượm các đồ phế liệu, đồ bỏ (rác)
- Phố Hàng Gà chạy từ phố Hàng Điếu đến phố Hàng Cót, vốn là nơi tập trung các cửa hàng bán đồ gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, gà tây...
- Phố Hàng Chĩnh được người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại Chậu), vốn thông ra bờ sông, là bến đậu các thuyền chở vại, chậu bằng sành của làngPhù Lãng, nồi đất, chum vại, tiểu sành từ Hương Canh, bằng gốm từ Thổ Hà
- Phố Hàng Đồng và phố Bát Sứ thời thuộc Pháp có tên chung là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Đoạn Hàng Đồng và Hàng Mã trước thuộc thôn Yên Phú, có nghề gốc bán đồ đồng như mâm, nồi, đỉnh, lư hương, lọ hoa, hạc thờ...
Nhà cổ
Thời kì toàn quốc kháng chiến, để tránh đụng độ trực tiếp với quân Pháp và lính Lê dương, người dân và Vệ quốc quân đã đục thông tường từ nhà này sang nhà khác. Khi cần người ta có thể đi từ đầu đến cuối phố qua những lỗ hổng giữa các ngôi nhà mà không cần phải xuống đường.Một đặc trưng nữa của khu phố cổ là kiến trúc nhà cổ trong khu phố buôn bán. Những nhà cổ chủ yếu là nhà ống, mái ngói nghiêng, mặt tiền là cửa hàng buôn bán thò thụt không đều. Hình ảnh nhà cổ và mái ngói đã đi vào hội họa, thơ ca. Những ngôi nhà này chủ yếu được dựng vào thế kỉ XVIII - XIX, trước đó hầu hết là nhà mái tranh, chỉ có một số nhà giàu có, nhà của Hoa kiều mới lợp mái ngói.
Từ cuối thế kỉ XX, các nhà cổ dần dần biến mất. Thay vào đó là các ngôi nhà ống xây mới phá vỡ cảnh quan vốn có của phố cổ. Tuy vậy, bên trong các ngôi nhà vẫn là hệ thống đường đi chằng chịt.
Di tích
Đình: mỗi phố nghề thường có một đình để thờ tổ nghề hoặc thành hoàng làng nguyên quán. Đình ở khu này đặc biệt là tầng dưới vẫn làm cửa hàng cho thuê, tầng trên mới làm nơi thờ cúng. Qua thời gian, các đình bị lấn chiếm nhiều, rất khó tìm ra dấu.Trong khu vực phố cổ có rất nhiều di tích lịch sử lâu đời, gồm đình, đền, chùa, hội quán.
- Đền: tương tự như đình, nhiều đền cũng chỉ đặt trên tầng, phía dưới làm cửa hàng. Một số đền còn giữ được là: đền Mã Mây, đền Nhân Nội, đền Bà Chúa,
- Chùa: trong khu phố cổ còn một số ngôi chùa, tuy đã bị lấn chiếm nhiều: chùa Cầu Đông, chùa Kim Cổ, chùa Thái Cam.
- Hội quán: khi người Hoa đến buôn bán, đã lập ra hai hội quán: Hội quán Quảng Đông và Hội quán Phúc Kiến.
Tại khu vực khu phố cổ xưa kia có các cửa ô: ô Phúc Lâm, ô Thanh Hà (ô Quan Chưởng), ô Trừng Thanh, ô Mỹ Lộc. Hiện chỉ còn lại ô Quan Chưởng là còn nguyên vẹn.
- Chợ: Bên cạnh các phố nghề, khu phố cổ cũng có một số chợ để tập trung bán các loại hàng hóa phục vụ đời sống, như chợ Đồng Xuân - Bắc Qua, chợ Hàng Da,chợ Hàng Bè.
Bảo tồn
Khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp 1: Được giới hạn bởi các phố Hàng Chiếu, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Mắm và Trần Nhật Duật (diện tích khoảng 19 ha).Phạm vị nghiên cứu quy hoạch được phân chia hai khu vực bảo vệ, tôn tạo đặc trưng như sau:
- Khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp 2: Bao gồm phần còn lại trong ranh giới khu Phố Cổ.
Kiến trúc cổ của khu phố này là các ngôi nhà nhỏ bé với mái tranh hay mái ngói, thường có sân chung, lô nhô nối tiếp nhau từ dãy phố này đến dãy phố khác. Khu phố này cũng đã từng là đề tài của nhiều văn nghệ sĩ làm nên những giá trị văn hóa ngày nay của Hà Nội. Ngày nay nhiều khu phố đã xuống cấp, phải trùng tu để nâng cấp lại.
Trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội năm 2010, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định dùng khoảng 50 tỷ đồng để tân trang 75 tuyến phố của các quận nội, ngoại thành, trong đó có việc quết vôi lại màu vàng cho mặt tiền các căn nhà trong Khu phố cổ.[4] Tuy nhiên có ý kiến người dân cho biết việc tân trang được thực hiện khá ẩu khiến mặt tiền nhiều ngôi nhà bị lem nhem.[4]
Ca dao
Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có ghi lại ca dao về 36 sáu phố ở Hà Nội như sau:
- Rủ nhau chơi khắp Long thành
- Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
- Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
- Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Bài[5], hàng Khay,
- Mã Vĩ[6], hàng Điếu, hàng Giầy
- Hàng Lờ[7], hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn[8],
- Phố Mới, Phúc Kiến[9], hàng Ngang,
- Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,
- Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,
- Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,
- Hàng Thùng, hàng Bát[10], hàng Tre,
- Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The[11], hàng Gà,
- Quanh đi đến phố hàng Da,
- Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh.
- Phồn hoa thứ nhất Long thành,
- Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
- Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
- Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền.
Hội họa
Khu phố cổ Hà Nội đã đi vào tranh của một danh họa là Họa sĩ Bùi Xuân Phái, trở thành một trường phái hội họa của Việt Nam, được biết đến với tên là phố Phái.
Tên các phố cổ
Tên phố trong khu phố cổ đa số đầu tiên là chữ "Hàng", sau đó là tên sản phẩm. Bên cạnh đó có một số phố không theo quy tắc đó, và một số phố mới đặt sau này mang tên người.
Các phố có chữ "Hàng" trong khu phố cổ (Dấu ** tương ứng với những tên phố hiện không còn dùng).
|
|
|
|
|
|
|
Các phố không có chữ "Hàng" trong khu phố cổ
|
|
|
|
|
|
|
|
Các phố có chữ "Hàng" nhưng không nằm trong khu phố cổ theo quy định
|
|
|
|
Các ngõ có chữ "Hàng"
|
|
|
|
Tên các đường phố Hà Nội thế kỷ 19 – 20[sửa | sửa mã nguồn]
- Ancien canal - Tên cũ phố Đào Duy Từ; Ancien canal nghĩa là Sông đào cũ.
- Anh Quốc - Tên phố Hàng Khay đặt trong thời tạm chiếm 1947 - 1954.
- Ấu Triệu - Phố ở cạnh Nhà Thờ Lớn: thời Pháp có tên là Ruelle Père Lecornu. Ấu Triệu nghĩa là Bà Triệu nhỏ, tên là Lê Thị Đàn người làng Thế Lại (Quảng Trị) tham gia phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (năm 1903). Tên Ấu Triệu do Phan Bội Châu đặt trong tập Truyện Nghĩa liệt.
- Ba Đình: Quảng trường. Thời Pháp thuộc là Rond point Puginier. Năm 1945 đổi là Quảng trường Ba Đình.
- Ba Lê - Tên vườn hoa cạnh Nhà Hát lớn đặt trong thời tạm chiếm 1947-1954.
- Bà Triệu - Đường phố có tên cũ thường gọi là Phố Hàng Giò (đoạn phía bắc gần Hàng Khay); thời Pháp thuộc là hai phố boulevard Gia Long và Rue Lê Lợi.
- Ngõ Bà Triệu - ở đoạn dưới phố Bà Triệu, trước kia được gọi là Ngõ Trường Bắn (nơi binh lính tập bắn).
- Báo Khánh - Tên phố ở phía tây Hồ Gươm, thời Pháp thuộc gọi là Rue Pottier.
- Bảo Linh - Tên thôn cũ thuộc khu vực phố Hàng Tre.
- Borgnis Desbordes - Rue Borgnis Desbordes, tên cũ phố Tràng Thi.
- Bình Chuẩn - Phố Bình Chuẩn: tên phố Hàng Thùng đặt năm 1945. Bình Chuẩn là tên một chiếc tàu thuỷ được đóng năm 1921 (chiếc tàu đầu tiên của người Việt Nam ở Bắc Kỳ).
- Cambanère - Rue Cambanère, tên cũ phố Hàng Bút.
- Cantonnais - Rue des Cantonnais, tên cũ phố Hàng Ngang thời thuộc Pháp (ý nghĩa là phố của người Hoa kiều gốc Quảng Đông).
- Cao Thắng - Phố Cao Thắng, thời thuộc Pháp gọi là Rue Grappin; năm 1945 là phố Nguyễn Cảnh Chân.
- Chân Cầm - Phố Chân Cầm thời Pháp thuộc có tên là Rue Lagisquet; tương truyền ngày xưa nơi đây có nghề sản xuất các loại đàn dùng cho âm nhạc cổ truyền.
- Chí Linh C - Vườn hoa Chí Linh, nằm ở bờ phía đông của Hồ Hoàn Kiếm, tên cũ thời Pháp thuộc là Vườn hoa Paul Bert, có nhà kèn, tượng Paul Bert và là nơi hàng năm diễn ra duyệt binh trong các ngày Hội Tây.
- Ngõ Chợ Đồng Xuân: một ngõ nhỏ nằm bên cạnh chợ Đồng Xuân. Nơi đây trước kia là chỗ giới thiệu người đi ở cho các gia đình.
- Chợ Gạo - Phố Chợ Gạo: thời Pháp thuộc gọi là Place du Commerce, là nơi tụ họp của những người buôn bán gạo từ nông thôn vào Hà Nội.
- Chùa Một Cột - Phố Chùa Một Cột: thời Pháp thuộc có tên là Rue Elie Groleau.
- Cổ Ngư - Đường Cổ Ngư: Thời thuộc Pháp gọi là Route Maréchal Lyautey, nay gọi là Đường Thanh Niên.
- Cống Chéo Hàng Lược - Tên gọi thông thường của phố Hàng Lược, thời Pháp thuộc gọi là Rue Sông Tô Lịch.
- Cột Cờ - Phố Cột cờ: thời Pháp thuộc gọi là Avenue Puginier.
- Chả Cá - Phố Chả Cá, đất thôn cũ Đồng Thuận. Trước kia phố này gọi là phố Hàng Sơn (tên chữ Pháp là Rue de la laque).
- Cột Đồng Hồ - Nơi được trồng một cột sắt lớn trên có đặt chiếc đồng hồ điện, ở ngã sáu mấy phố đi ra Bờ Sông, tại đầu đường Trần Nhật Duật [19].
Labels
- An Giang
- Bạc Liêu
- Bali
- Bắc Giang
- Bắc Kạn
- Bắc Ninh
- Bình Dương
- Bình Định
- Bình Phước
- Bình Thuận
- buôn ako dhong
- Cà Mau
- Cao Bằng
- Cần Thơ
- Châu Đốc
- Côn đảo
- Dak Lak
- Dak Nong
- Đà Lạt
- Đà Nẵng
- Đảo Bali
- Điện Biên
- Gia Lai
- Hà Giang
- Hà Nam
- Hà Nội
- Hà Tiên
- Hà Tĩnh
- Hải Dương
- Hải Phòng
- Hậu Giang
- Hòa Bình
- Hồ Chí Minh
- Hội An
- Hồng Kong
- Huế
- Hưng Yên
- Indonesia
- Kien giang
- Kiên Giang
- Kon Tum
- Lai Châu
- Lạng Sơn
- Lào
- Lào Cai
- Long An
- Malaysia
- Miền Bắc
- Miền Nam
- Miền Tây
- Miền Trung
- Nam Định
- Ninh Bình
- Ninh Thuận
- Phan Thiết
- Phú Quốc
- Phú Thọ
- Phú Yên
- Pleiku
- Quảng Bình
- Quảng Nam
- Quảng Ngãi
- Quảng Ninh
- Quảng Trị
- Quy Nhơn
- Sapa
- Sóc Trăng
- Sơn La
- Tay Nguyên
- Tây Bắc
- Tây Nguyên
- Tây Ninh
- Thái Lan
- Thái Nguyên
- Thanh Hóa
- Tiền Giang
- Trà Vinh
- Tuyên Quang
- Vĩnh Long
- Vĩnh Phúc
- Vũng Tàu
- Yên Bái
My Blog List
Giới thiệu về tôi
Được tạo bởi Blogger.
Lưu trữ Blog
-
▼
2015
(371)
-
▼
tháng 6
(21)
- Làng Mộc Kim Bồng (Hội An- Quảng Nam)
- Làng Gốm Thanh Hà (Hội An- Quảng Nam)
- Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh (Hà Nội)
- Phố cổ Hà Nội
- Nét văn hóa ẩm thực Sapa (Lào Cai)
- Vươn Hoa Thành Phố Đà Lạt
- Tour du lịch Đà Lạt Festival hoa 2015 (4 ngày 3 đêm)
- Trúc Lâm Viên (Đà Lạt)
- Tour du lịch Hà Nội- Hạ Long- Sapa(4 ngày 3 đêm)
- Thác Bà (Yên Bái)
- Núi Hàm Rồng (Sapa- Lào Cai)
- Hùng Vỹ Hoàng Liên Sơn (Sapa-Lào Cai)
- Thác Bạc(Sapa-Lào Cai)
- Tản mạn cung đường Tây Bắc
- Du lịch Sapa (Lào Cai)
- Tour du lịch mùa thu Hà Nội- Hà Giang : mùa lúa ch...
- Cột cờ Lũng Cú (Hà Giang)
- Cao nguyên Đá Đồng Văn (Hà Giang)
- Núi Đôi Cô Tiên (Hà Giang)
- Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên (Vĩnh Phúc)
- Khu Du Lịch Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
-
▼
tháng 6
(21)
Popular Posts
-
Đèo Lò Xo dài 20km thuộc địa phận làng Măng Khen, xã Đăk Man, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum. Đèo nằm trên tuyến đường quốc lộ 14 (HCM) từ Quả...
-
HẢI VÂN Lịch trình 1 : Mỹ Đình – Mù Cang Chải – Lai Châu Giờ xuất bến : Mỹ Đình 19h15 Lai Châu 19h30 Điện thoại : (0231) 6277287 / 094...
-
Buôn Ma Thuột (Hay Ban Mê Thuột ) là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Lắk, đồng thời là thành phố trung tâm vùng Tây Nguyên và là một trong ...
-
Tại Việt Nam có nhiều miếu Ba Cô như ở Quảng Ninh, Tây Ninh... Thế nhưng, mỗi khi ngang qua miếu Ba Cô ở lưng chừng đèo Bảo Lộc (huyện Đạ Hu...
-
Khu du lịch sinh thái KoTam nổi lên như một địa điểm đầy mới mẻ và cuốn hút trong lòng du khách thập phương mỗi khi ghé thăm xứ đất đỏ Ban M...
-
Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch của tỉnhKhánh Hòa, Việt Nam. ...
-
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 , thường được gọi là 30 tháng Tư , ngày giải phóng miền Nam , ngày Thống Nhất (tên gọi tại Việt Nam ) hay ...
-
Bỏ lại sau lưng những tòa nhà cao tầng, bỏ lại nhựng con đường đông nghẹt xe cộ, bỏ lại nơi phố thị phồn hoa tráng lệ để đến với một nơi hoà...
-
Nhắc đến trầm tích văn hóa miền hạ lưu Thạch Hà, hàng trăm du khách xa gần không thể quên vẻ đẹp dãy núi Nam Giới. Dãy núi giấu trong lòng ...
-
Nằm sâu trong những dãy núi và xa khu dân cư, Thung Nham được biết đến là nơi có nhiều loài Chim cư trú làm tổ. Đến đây ngoài tham quan cá...